Trang thông tin hướng dẫn và chia sẻ kinh nghiệm du lịch Phong Nha

Điểm Đến

Đền thờ Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh: Tưởng nhớ vị khai quốc công thần

Nguyễn Hữu Cảnh, khai quốc công thần quê ở Quảng Bình, được người dân miền Nam kính trọng. Mộ ông hiện nay nằm ở An Mã, Lệ Thủy.

Lăng mộ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tọa lạc trên một ngọn đồi rộng thuộc dãy núi An Mã, xã Trường Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, cách trung tâm huyện 25km về phía Nam.

Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh

Nguyễn Hữu Cảnh: Người khai phá vùng đất mới

Nguyễn Hữu Cảnh, vị khai quốc công thần, Thượng đẳng thần, Chưởng cơ Lễ Thành Hầu, sinh năm Canh Dần (1650) tại xã Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Ông là một kiệt tướng đời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (Hiến Tông Hiếu Minh Hoàng đế 1691-1725), thuộc dòng dõi danh giá, là hậu duệ 19 đời của Khởi tổ Nguyễn Bặc, hậu duệ 9 đời của Hậu tổ Nguyễn Trãi, cháu bàng hệ 7 đời của tổ Nguyễn Như Trác, cháu bàng hệ 5 đời của Nguyễn Kim. Ông là con trai thứ ba của Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật, em ruột của Hào Lương Hầu Nguyễn Hữu Hào, nối tiếp truyền thống võ công hiển hách của dòng họ.

Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh

Nguyễn Hữu Cảnh sinh ra trong một gia đình danh giá, ba cha con đều là những tướng lĩnh tài ba, có công lao to lớn trong việc giúp các chúa Nguyễn củng cố và mở rộng vùng đất Đàng Trong.

Sinh ra trong gia đình võ tướng, am hiểu chính sự, Nguyễn Hữu Cảnh sớm được tôi luyện trong bối cảnh đất nước nhiễu nhương. Năm 22 tuổi (1650-1972), ông đã xung phong vào chiến trận, phụng mạng chúa, cầm quân xông pha bảo vệ bờ cõi, mang lại bình yên cho dân chúng.

Được chúa Nguyễn – Nguyễn Phúc Chu trọng dụng, Nguyễn Hữu Cảnh với tài năng xuất chúng, trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh phi thường, đã lập nên nhiều chiến công hiển hách.

Năm 1690-1691, Kế Bà Tranh, người kế vị vua Chăm Pa, bỗng dưng trở mặt, phá vỡ quan hệ hòa bình và liên tục xâm phạm biên giới Đại Việt. Quân Chăm thường xuyên tấn công Phủ Diên Ninh (Diên Khánh), tàn sát người dân vô tội mỗi độ xuân về, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho vùng đất biên ải.

Năm 1692, Chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh, cùng tham mưu Nguyễn Đình Quang tiến quân bình định biên cương. Đến mùa xuân năm 1693, quân Chiêm Thành bị đánh bại, toàn bộ lãnh thổ Chiêm Thành được sáp nhập vào Đàng Trong. Vùng đất mới được bình yên, Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh lập ra Thuận Thành trấn, sau đó đổi tên thành phủ Bình Thuận vào tháng 8 cùng năm.

Tháng 7-1693, ông trở về Phú Xuân và xin chúa Nguyễn Phúc Chu chiêu mộ dân nghèo khắp xứ Thuận – Quảng, cùng với những nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Tri Thắng, Nguyễn Tấn Lễ, Chu Kiêm Lễ… để đưa vào Nam.

Năm Mậu Dần (1698), Chúa Nguyễn Phúc Chu giao trọng trách kinh lược cho Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Ông chọn Cù Lao Phố (Đồng Nai) làm căn cứ đầu tiên, cho quân đóng quân, quan sát địa hình và lên kế hoạch khai khẩn, an dân.

Tại Cù Lao Phố, Nguyễn Hữu Cảnh không chỉ khai hoang mở đất mà còn triển khai một kế hoạch toàn diện để ổn định biên cương. Song song với việc khẩn hoang, ông nhanh chóng chia đất định vùng, giúp người dân an cư lạc nghiệp, tạo nền móng cho sự phát triển lâu dài của vùng đất mới.

Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ông đã tổ chức lại hệ thống hành chính vùng Đông Phố. Đồng Nai được lập thành huyện Phước Long, với dinh trấn biên (Biên Hoà) làm trung tâm. Xứ Sài Côn được đổi thành huyện Tân Bình, có dinh Phiên Trấn (nay là Sài Gòn) là nơi cai quản. Mỗi trấn có lưu thủ đứng đầu, phụ trách về hành chính, dưới là cai bạc quản lý ngân khố và ký lục lo việc hành án. Ngoài ra, ông còn lập thêm một đơn vị hành chính tại Sa Hà (sau là Hạnh Thông Tây Gò Vấp). Tất cả các đơn vị này đều trực thuộc phủ Gia Định.

Đồng Nai – Gia Định bỗng chốc rộng lớn hơn với hàng ngàn dặm vuông đất mới, dân số tăng vọt thêm 4 vạn hộ. Những ngôi nhà mọc lên san sát, tạo nên khung cảnh sầm uất chưa từng có. Tại Phước Long, thống suất không ngừng nỗ lực mở rộng cảng Đại Phố, tạo điều kiện thuận lợi cho thương thuyền ngoại quốc lui tới, góp phần thúc đẩy giao thương phát triển mạnh mẽ.

Sự kiện Nguyễn Hữu Cảnh khai khẩn và thiết lập hệ thống nhà nước trên miền đất mới đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại. Ông không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên vùng đất hoang sơ, mà còn là người đưa vùng đất này chính thức trở thành một phần lãnh thổ của quốc gia.

Điều quan trọng nhất, như học giả Trần Bạch Đằng đã chỉ ra, là việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh đã mang lại cho cư dân lưu tán địa vị công dân chính thức, quyền sở hữu đất đai hợp pháp và sự bảo vệ của nhà nước. Việc xác lập cương vực quốc gia trên vùng đất mới không chỉ khẳng định chủ quyền của Việt Nam, mà còn giúp bảo vệ cư dân khỏi nguy cơ xâm lấn từ bên ngoài.

Nhờ những đóng góp to lớn đó, Nguyễn Hữu Cảnh trở thành biểu tượng của sự hiện diện và bảo vệ của quốc gia đối với người dân. Ông đã đáp ứng được cả nhu cầu về quyền lợi và cảm xúc của họ, góp phần củng cố ý thức dân tộc và lòng yêu nước. Sự kiện này là kết quả của một mong muốn đã được ấp ủ và nung nấu suốt nhiều thế kỷ, một minh chứng cho tinh thần khai hoang, kiến quốc và khát vọng thống nhất giang sơn của dân tộc Việt Nam.

Được chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận, Nguyễn Hữu Cảnh đã chủ trì cuộc di dân quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử, đưa dân từ vùng Ngũ Quảng (Bố Chính, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Ngãi) vào khai phá vùng đất hoang vu, tạo nên Nam bộ trù phú như ngày nay. Tại vùng đất mới, Nguyễn Hữu Cảnh đã khéo léo quy hoạch, thiết lập làng xã, xóm ấp, lập sổ đinh điền và định mức tượng trưng về tô thuế. Riêng người Hoa, ông cho định cư tại hai khu vực riêng biệt.

Xã Thanh Hà, thuộc huyện Phước Long, tỉnh Đồng Nai.

Xã Minh Hương thuộc huyện Tân Bình, Sài Gòn.

Toàn bộ dân chúng đều được ghi danh trong sổ bộ của nhà nước Đại Việt.

Sau 8 năm hòa bình, quan hệ Việt – Miên lại trở nên căng thẳng khi triều đình Chân Lạp gây hấn, đốt phá nhà cửa, cướp bóc dân buôn và tấn công các dinh trấn của Đại Việt. Trước tình hình đó, mùa thu năm Kỷ Mão (1699), Chúa Nguyễn Phúc Chu quyết định cử Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất vào Nam để giữ vững biên cương.

Tháng 2 năm Canh Thìn (1700), đại quân của Nguyễn Hữu Cảnh đóng quân tại Rạch Cá (Ngư Khê), nay là Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Tháng 3, ông chia quân làm hai đạo tiến về Nam Vang nhằm dàn xếp hòa hiếu. Đến tháng 4, quân đội dừng chân tại Cồn Cây Sao (nay là Cù Lao Ông Chưởng) để báo cáo chiến thắng về Phú Xuân và chờ lệnh Chúa.

Quảng Bình với Lễ Thành Hầu

Bệnh tật bất ngờ ập đến, cướp đi sinh mệnh của Nguyễn Hữu Cảnh vào ngày 9 tháng 5 năm Canh Thìn, khi ông đang trên đường tiến về Rạch Gầm (Sầm Khê). Ông qua đời ở tuổi 51, để lại tiếc thương vô hạn cho người đời. Dù cuộc đời ngắn ngủi, nhưng công lao to lớn của ông trong việc khai khẩn vùng đất phương Nam đã được triều đình nhà Nguyễn ghi nhận một cách xứng đáng. Ông được truy phong Thượng đẳng thần, Khai quốc công thần, danh hiệu cao quý tôn vinh những đóng góp to lớn cho đất nước.

Sự kính trọng và biết ơn đối với Nguyễn Hữu Cảnh được thể hiện rõ nét trong văn hóa tâm linh của người Việt. Từ Quảng Bình đến Quảng Nam, từ Đồng Nai đến An Giang, Cần Thơ và ngay giữa lòng Sài Gòn, đâu đâu cũng có nhà thờ, đền thờ ông. Tại xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, nơi ông từng đặt chân, đền Vĩnh Yên (hay còn gọi là đền Vĩnh An Hầu) được xây dựng để tưởng nhớ công lao của Thượng Đẳng Thần Vĩnh An Hầu, Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Trải qua hai cuộc chiến tranh và thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, ngôi đền đã bị tàn phá. Nhưng với tấm lòng tri ân uống nước nhớ nguồn, đền Vĩnh Yên đã được tỉnh cho xây dựng lại và khánh thành vào ngày 18 tháng 5 (âm lịch) năm 2002, tiếp tục là nơi lưu giữ và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa của người anh hùng khai quốc.

Trong khuôn viên lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình, một tấm bia đá mang giá trị lịch sử đặc biệt vẫn còn được lưu giữ. Bia mộ, được tạc bằng đá xanh cẩm thạch theo kiểu dáng phổ biến cuối triều Nguyễn, cao 1,2m. Mặt trước bia hướng về ngôi mộ, khắc 3 dòng chữ Hán, dịch nghĩa là:

Ông là người mở mang bờ cõi, khai quốc vùng đất phía Nam, được tôn vinh là bậc thần thượng cấp của triều Nguyễn.

Nơi yên nghỉ cuối cùng của Vĩnh an hầu Nguyễn Hữu Kính, một danh nhân lịch sử, nằm ẩn mình giữa đất trời.

Ngũ Đức Hầu Nguyễn Hữu Mạn, cháu đời thứ tư của quê hương, là quan cai quản đạo quân hưng nghĩa. Ông lập bia mộ vào thời Gia Long sơ niên.

Ngày 16 tháng 7 năm 1925, Đại thần thái tử thái phó, Phúc môn bá Đại học sĩ điện Võ Hiện, lúc bấy giờ đang giữ chức Viện trưởng Viện cơ mật Nguyễn Hữu Bài, đã lập bia mộ này để tôn kính con gái mình là Thị Dương.

Việc tìm thấy ngôi mộ đã giải quyết những nghi vấn lịch sử bấy lâu nay về nơi an nghỉ của ông. Trước đó, nhiều cuộc hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp của ông đã đặt ra câu hỏi về vị trí mộ thật sự: Cù Lao Phố, Rạch Gầm, Điện Bàn, Quảng Nam hay Thác Ro – Quảng Bình.

Dù thời gian trôi qua bao thế kỷ, sự nghiệp của Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vẫn tỏa sáng rực rỡ trong ký ức bất diệt của người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân Quảng Bình. Dù lịch sử thăng trầm, tên tuổi của ông mãi trường tồn, là minh chứng cho lòng dũng cảm và tài năng của một vị tướng tài ba.

“Công Lễ Thành Hầu đi mở đất

Công ơn trời biển, muôn đời khắc ghi.